Kinh tế Nhà_Kim

Có sự khác biệt lớn trong phát triển kinh tế giữa khu vực của triều Kim. Khi mới kiến lập triều Kim, tộc Nữ Chân vẫn còn ở chế độ hỗn hợp đánh cá săn bắn và trồng trọt, sau đó họ khống chế được vùng đất của người Hán, những nơi đã phát triển kinh tế nông nghiệp ở trình độ rất cao. Hơn một nửa thế kỷ từ thời Kim Hy Tông đến thời Kim Chương Tông, kinh tế xã hội phương bắc Trung Hoa có được sự khôi phục và phát triển ở trình độ nhất định. Kinh tế xã hội của khu vực Đông Bắc triều Kim có sự phát triển khá lớn so với thời Liêu, chẳng hạn nghề rèn sắt có tiến bộ rõ rệt. Trong thời Kim Thế Tông và Kim Chương Tông, các hộ mãnh an-mưu khắc vốn sử dụng nô lệ sản xuất dần chuyển hóa thành địa chủ. Việc chuyển hóa này chủ yếu có nhận ruộng, đánh thuế, phân biệt bình dân và nô lệ, quý tộc Nữ Chân dựa vào đó mà mở rộng phạm vi đất đai chiếm hữu.[7]

Nông nghiệp và súc mục nghiệp

Chấp hồ men trắng thời Kim.

Triều Kim lấy việc phát triển nông nghiệp làm cơ sở để khoách trương quân sự, nhằm biến vùng đất Đông Bắc của tổ tiên thành kho lương thực, các công cụ sản xuất và kỹ thuật trồng trọt ở Trung Nguyên dần được truyền bá đến Đông Bắc. Do các công cụ làm bằng sắt được sử dụng rộng rãi nên sản xuất nông nghiệp tiến triển, số giống cây trồng cũng ngày càng tăng thêm. Vào thời Kim sơ, không trồng cốc mạch mà chỉ trồng kê xuân. Về sau, số giống cây trồng ngày càng tăng, có lúa mì, kê, kê Âu, cỏ gạo, đay, đậu tương; các loại rau có hành, tỏi, hẹ, hướng dương, cải và dưa.[37] Triều đình Kim cũng khuyến khích khẩn hoang, như quy định khai khẩn đất hoang hoặc đất bãi ven Hoàng Hà có thể được giảm miễn tô thuế, do vậy diện tích đất ruộng khai hoang tăng lên.[7]

Chế độ đất đai của triều Kim cấp rất nhiều ưu đãi cho người Nữ Chân, còn người Hán, người Khiết Đan và người Bột Hải không được hưởng. Chế độ đất đai của người Nữ Chân được gọi là chế độ "ngưu cụ thuế địa",[38] kế thừa tập tục của chế độ thị tộc. Số đất đai chiếm ít hay nhiều phụ thuộc và số bò cày, nhân khẩu; quý tộc Nữ Chân sở hữu nhiều nhân khẩu và bò cày tự nhiên có thể chiếm được một vùng đất rộng lớn. Đến những năm Đại Định (1161-1189) thời Kim Thế Tông, tình hình tỷ lệ giữa bò, người và đất không phù hợp trở nên rất phổ biến.[7]

Thời kỳ Kim Hy Tông, triều Kim bắt đầu thực hành chế độ "kế khẩu thụ điền". Lúc mới đầu sau khi thống trị khu vực Hoa Bắc rộng lớn, triều Kim có kế hoạch đưa một lượng lớn mãnh an mưu khắc phân tán ra các nơi để trấn áp người Hán, được gọi là đồn điền quân. Triều Kim đối với các đồn điền quân hộ này đều chiếu theo hộ khẩu mà cấp cho ruộng công, gọi là "kế khẩu thụ điền".[39] Khi ruộng công không đủ để phân phối thì tiến hành cướp ruộng dân. Sau khi được phân đất, đại đa số đồn điền quân hộ nhượng tô cho người Hán canh tác, hoặc cưỡng bách người Hán trồng cấy mà không trả công.[40] Do tình trạng bóc lột nghiêm trọng, không ai muốn trồng cấy, đất đai dần hoang phế. Đến thời Kim Thế Tông, triều đình lại phái quan lại đến các nơi để "câu xoát lương điền", chiếm đất đai làm ruộng công.[7][41]

Người Nữ Chân vốn là cư dân ở vùng Đông Bắc Trung Quốc ngày nay, súc mục nghiệp, hay nghề chăn nuôi gia súc, của người Nữ Chân rất phát triển. Thời kỳ Kim Đế Hoàn Nhan Lượng, người Kim vốn có tới 9 quần mục sở. Đến khi Nam chinh, người Kim trưng dụng được hơn 56 vạn chiến mã, song vì chiến sự nên tổn thất hơn một nửa. Đến những năm đầu Kim Thế Tông, người Kim chỉ còn 4 quần mục sở. Kim Thế Tông bắt đầu phục hồi súc mục nghiệp, đương thời tại các nơi Phủ châu, Lâm Hoàng phủ, Thái châu thiết lập 7 quần mục sở. Từ năm 1168, triều đình hạ lệnh bảo hộ ngựa, bò, cấm chỉ giết thịt, cấm chỉ thương nhân và thuyền xe sử dụng ngựa. Triều đình cũng quy định đối với quần mục quan hay quần mục nhân, dựa theo tình hình sinh trưởng tổn hai của vật nuôi mà thưởng phạt. Triều đình thường phái xuất quan viên đến kiểm tra chính xác số vật nuôi, khi phát hiện thiếu thì xử phạt quan lại, còn người chăn thả phải bồi thường. Đối với các hộ dân tự chăn nuôi, phải đăng ký số ngạch, dựa theo tình trạng giàu nghèo mà tạo bạ tịch, khi có chiến sự thì dựa theo bạ tịch để trưng dụng hoặc miễn trưng dụng song thường xuất hiện hiện tượng không công bằng giữa hộ giàu và nghèo. Đối với dê và ngựa do các bộ tộc nuôi dưỡng, triều đình Kim quy định chế độ, cấm chỉ quan phủ tùy ý cưỡng đoạt.[42]

Thủ công nghiệp

Gương đồng song ngư thời Kim

Sản xuất thủ công nghiệp dưới triều Kim như gốm sứ, khai mỏ và luyện kim, đúc, làm giấy, in ấn, trải qua chiến loạn và phục hồi, đều có sự phát triển. Người Nữ Chân trước khi kiến quốc thì thịnh hành nghề rèn sắt. Sau khi kiến lập triều Kim, nghề luyện sắt tại phương bắc tiếp tục phát triển, các nơi sản xuất đồ sắt có tiếng là Vân Nội châu, Chân Định phủ, Lỗ Sơn ở Nhữ châu, Bảo Phong, Nam Dương thuộc Đặng châu, tại Vân Nội châu sản xuất quy mô lớn một loại đồ sắt gọi là "thanh tấn thiết" (thép già xanh). Ngoài ra, tại khu vực Đông Bắc, người ta bắt đầu khai thác than đá. Các công cụ làm từ đồ sắt được sử dụng rộng rãi. Trên phạm vi rộng lớn thuộc Đông Bắc, đều phát hiện được các đồ làm bằng sắt có niên đại từ thời Kim, trong đó có một lượng lớn nông cụ làm bằng sắt, với nhiều chủng loại, kết cấu phức tạp, hình dạng tương tự hoặc tương hợp như ở khu vực Trung Nguyên, thể hiện rõ ràng rằng phương thức sản xuất nông nghiệp Đông Bắc đã có cải biến to lớn. Từ năm 1961 đến 1962, tại Ngũ Đạo Lĩnh thuộc huyện A Thành của tỉnh Hắc Long Giang, đã phát hiện được hơn 10 hố khai khoáng sắt vào trung kỳ chiều Kim, hơn 50 di chỉ luyện sắt. Hố khai thác sắt sâu nhất là hơn 40 mét, với các khu tác nghiệp như khai thác khoáng hay tuyển khoáng. Căn cứ trên quy mô khai thác, ước tính trong các hố khoáng sản này có thể khai thác ra được 4 trăm nghìn-5 trăm nghìn tấn quặng sắt.[7]

Gối hình hổ, thuộc gốm sứ Từ châu.

Nghề gốm sứ do có cơ sở từ thời Liêu và Bắc Tống nên cũng khá phát triển. Thời Kim Hy Tông, các khu vực gốm sứ vốn nổi tiếng ở phương bắc như Diệu Châu diêu ở Thiểm Tây, Quân diêu ở Hà Nam, Định châu diêu và Từ châu ở Hà Bắc không ngừng khôi phục sản xuất, Lâm Nhữ và các nơi sản xuất gốm sứ khác nổi lên, công nghệ mỗi nơi đều có điểm đặc sắc. Nghề đúc tiền, vàng và làm đồ ngọc cũng tương đối phát triển, những năm gần đây đã phát hiện được nhiều văn vật quý báu. Hoạt động thương nghiệp dần sôi động, trong các di chỉ và mộ táng thời Kim ở khu vực Đông Bắc đã phát hiện được lượng lớn tiền đồng triều Tống, có thể thấy sự mật thiết trong mậu dịch giữa triều Kim và phương nam. Giấy trúc Tắc Sơn và giấy đay Bình Dương ở Sơn Tây vang danh một thời. Dùng bản khắc in thành sách trở nên phổ biến, kỹ thuật bản khắc của triều Kim cho ra các sản phẩm đẹp tương đương với Nam Tống, trung tâm bản khắc in ấn của triều Kim là ở Bình Dương.[7]

Thương nghiệp

Do sản xuất kinh tế của Kim được khôi phục và phát triển, thương nghiệp ngày càng phồn thịnh. Những năm đầu Kim kiến quốc, thương nghiệp các khu vực phát triển rất không đồng đều. Đương thời, vùng đất tổ tiên của người Nữ Chân là khu vực Đông Bắc còn "không có chợ làm nơi mua bán, không dùng tiền mà chỉ dùng vật phẩm trong mậu dịch", nhưng Trung Đô của Kim và Khai Phong phủ đều là những thành thị thương nghiệp hưng thịnh. Triều Kim cho lập nên không ít "các trường" để tiến hành mậu dịch với Tây Hạ và Nam Tống. Tuy nhiên, do Kim và Tống khi chiến khi hòa nên mậu dịch các trường chịu ảnh hưởng nhất định. Kim chủ yếu xuất sang Nam Tống các thương phẩm như da, nhân sâm, lụa; còn Nam Tống xuất sang Kim các thương phẩm như trà, dược phẩm, tơ. Hội Ninh phủ, Trung Đô, Khai Phong phủ, Tế Nam phủ đều là các trung tâm thương nghiệp khá lớn vào đương thời.[42]

Sau khi Trung Đô (nay thuộc Bắc Kinh) trở thành quốc đô của triều Kim, giao thông thủy bộ phát triển, nhân khẩu gia tăng nhanh chóng, trở thành một trọng trấn thương nghiệp có hoạt động mậu dịch phát triển,[43] trong đó "Thành Bắc tam thị" là trung tâm thương nghiệp. Thời kỳ Kim Thế Tông, chùa Tướng Quốc ở Khai Phong phủ khai tự vào ngày 3, ngày 8 mỗi tháng, lái buôn tập trung tại đó để tiến hành mậu dịch, bên trong "phù ốc" dưới cửa lầu Tuyên Đức, người mua bán rất đông.

Tiền tệ

Theo chế độ tiền tệ của Kim, ba loại tiền là tiền đồng, tiền giấy, tiền bạc cùng lưu hành. Vào đầu triều Kim, vẫn sử dụng tiền tệ Liêu, Tống; tình trạng này kéo dài đến sau lần nghị hòa thứ hai giữa Kim-Tống, khi mà chiến tranh tạm kết thúc. Năm 1158, Kim Đế Hoàn Nhan Lượng lần đầu tiên cho đúc và lưu hành Chính Long thông bảo Tiểu Bình tiền. Năm 1204, Kim Chương Tông cho đúc Thái Hòa thông bảo Chân Thư tiền. Năm 1213, Kim Đế Hoàn Nhan Vĩnh Tế cho đúc Chí Ninh nguyên bảo tiền. Kim Tuyên Tông sau khi nam thiên cũng cho đúc và lưu thông tiền tệ. Sau khi tiêu diệt Bắc Tống, triều Kim từng phù trợ Lưu Tề lập quốc, tiền tệ thể chế này đúc ra có vẻ thanh tú đẹp đẽ, tinh chỉnh giống như tiền Bắc Tống.[7]

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nhà_Kim http://jwsr.ucr.edu/archive/vol12/number2/pdf/jwsr... http://books.google.com.hk/books?id=t21yghJHIpEC&p... http://www.archive.org/stream/06059337.cn#page/n11... //dx.doi.org/10.1111%2F0020-8833.00053 //dx.doi.org/10.5195%2FJWSR.2006.369 http://www.escholarship.org/uc/item/3cn68807 //www.jstor.org/stable/2600793 //www.worldcat.org/issn/1076-156X https://web.archive.org/web/20070222011511/http://... https://commons.wikimedia.org/wiki/Category:Jin_Dy...